Câu 1 :
a. Những thành tích của Joseph Schooling và Jack Nicholson đã chứng tỏ họ vượt qua thần tượng của mình:
- Tại thế vận hội Mùa hè 2016 ở nội dung 100m bơi bướm, Joseph Schooling đã vượt qua thần tượng Michael Phelps để đoạt lấy Huy chương vàng cho mình.
- Jack Nicholson đã giành được 3 giải Oscar so với thần tượng của mình là Marlon Brando chỉ mới đạt được 2 giải Oscar.
b. Trong văn bản 1, từ nhưng ở câu số 2 là từ thể hiện phép liên kết câu: phép nối.
c. Thông điệp chung của 2 văn bản trên: khi
làm bất cứ công việc gì, nếu có đủ ý chí và đam mê, một ngày nào đó ta
không chỉ thành công mà còn có thể vượt qua chính thần tượng của mình
hôm nay.
d. Mỗi học sinh có những nhận xét khác
nhau về cách thể hiện sự hâm mộ của các bạn trẻ ngày nay đối với thần
tượng của mình. Đây chỉ là một gợi ý:
- Thần tượng của bạn trẻ ngày hôm nay
khá đa dạng. Có thể đó là những người nổi tiếng trong các lãnh vực thể
thao, ca nhạc,… Các bạn trẻ đã không nề hà công sức đi theo các thần
tượng của mình trong các trận thi đấu hoặc các show diễn. Họ tặng hoa,
họ ôm hôn, gào thét để thể hiện sự hâm mộ của mình. Ít người có được
tinh thần như Schooling đối với Michael Phelps hoặc Jack Nicholson đối với Marlon Brando lấy
thần tượng của mình làm nguồn cảm hứng, tấm gương soi để nỗ lực phấn
đấu. Đa số bạn trẻ ngày nay đã tôn thờ thần tượng một cách quá lố và
thiếu tỉnh táo.
Câu 2:
Thí sinh cần đáp ứng yêu cầu
của câu hỏi: trình bày suy nghĩ của mình được gợi lên từ vấn đề đã nêu
trên trong phạm vi khoảng một trang giấy thi. Thí sinh có thể triển khai
suy nghĩ của mình theo những cách cụ thể khác nhau. Sau đây là một số
gợi ý để tham khảo:
*Yêu cầu chung : Thí sinh biết
kết hợp kiến thức và kỹ năng về dạng bài nghị luận xã hội để tạo lập văn
bản. Bài viết phải có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; diễn
đạt trôi chảy, đảm bảo tính liên kết; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ,
ngữ pháp.
*Yêu cầu cụ thể:
a- Giới thiệu vấn đề: Để
hình thành một lối sống hoàn hảo và đúng đắn là một vấn đề vô cùng khó
khăn và phức tạp. “Phải tôn trọng sự khác biệt”, đó là lời khuyên của
các nhà tâm lý và giáo dục. Câu hỏi :”Tuổi trẻ có cần sống khác biệt?”
Đó là một câu hỏi đơn giản nhưng rất khó trả lời. Sau đây là những ý
kiến của em về câu hỏi trên.
b- Sự khác biệt là
bản chất của đời sống đa dạng, phong phú và muôn màu muôn vẻ. Tuy nhiên,
bên cạnh sự đa dạng và khác biệt, xã hội con người có rất nhiều điểm
chung tốt đẹp cũng như xấu xa. Những truyền thống văn hóa tốt đẹp, những
thuần phong mỹ tục cần phải được duy trì và tôn trọng. Bên cạnh đó,
chúng ta cần đấu tranh chống lại sự a dua đầy tội lỗi của đám đông.
c- “Nhập giang tùy khúc,
nhập gia tùy tục”. Biết hòa đồng với hoàn cảnh xã hội hiện tại là một kỹ
năng cần thiết. “Đồng phục” trong cách sống, trong cách suy nghĩ, trong
cách ăn mặc là một nét đẹp thể hiện sự hòa đồng của con người với tập
thể. Khi sống hòa đồng với mọi người, tuổi trẻ chắc chắn có được niềm
vui, sự đoàn kết, sự chia sẻ và bình yên trong sinh hoạt cũng như làm
việc.
Sống khác biệt chắc chắn
không phải là mục đích sống của người trẻ tuổi bởi vì phần lớn họ là
những người có khao khát tạo dựng cho mình một sự nghiệp, một cuộc sống
vững vàng và hạnh phúc. Sống khác biệt dễ trở nên lập dị, dễ xung đột
với tập thể, do đó người khác biệt dễ vấp phải sự chống đối của đa số,
dễ trở thành kẻ cô đơn lạc lõng. Chỉ có sống hòa đồng, quân bình hài hòa
với mọi người, người trẻ tuổi mới có được hạnh phúc và thành công. Do
đó tuổi trẻ không cần phải sống khác biệt, nhất là trong hoàn cảnh bình
thường.
d- Tuy nhiên, trong hoàn
cảnh đặc biệt, cần dám sống khác biệt với số đông bởi vì số đông và tư
duy số đông không phải luôn luôn đúng. Có nhiều bằng chứng của lịch sử
đã cho thấy điều đó, ví dụ như Galile. Khi đó, dám sống khác biệt chính
là sự khẳng định giá trị và nhân cách của một con người. Đôi khi phải có
can đảm và sống chết bảo vệ sự khác biệt của mình nếu đó là đúng đắn và
tốt đẹp. Khuất Nguyên ngày xưa đã dám một mình trong khi cả đời đục.
Tuổi trẻ là tương lai, là vận mệnh của quốc gia, cho nên trong những
tình huống thử thách khắc nghiệt của Tổ quốc, họ cần dám sống khác biệt
với số đông để dấn thân vào sự hiểm nguy đấu tranh cho sự tồn vong của
đất nước, như những chiến sĩ cách mạng Việt Nam trong thời kì trước
1945.
e- Tuổi trẻ cần phải có nhận
thức đúng về sự khác biệt và hòa đồng, cần nhận thấy hòa đồng khác với a
dua, về hùa, cũng như khác biệt không phải là lập dị, để từ đó biết
sống hòa đồng và can đảm khác biệt khi cần thiết. Phải biết phát huy bản
lĩnh của bản thân trong suy nghĩ, cũng như hành động để thể hiện bản
chất tốt đẹp của tuổi trẻ là tương lai, là rường cột của nước nhà.
Câu 3:
Đề 1:
Yêu cầu chung:
Thí sinh phải biết kết hợp kiến thức và kỹ năng làm bài nghị luận văn
học: Cảm nhận về một đoạn thơ trong bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của
Huy Cận. Sau đó liên hệ với một tác phẩm khác hoặc với thực tế cuộc sống
để thấy được tình yêu, sự gắn bó của con người Việt Nam với biển quê
hương. Bài viết có bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện
khả năng cảm thụ văn học tốt; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Gợi ý:
Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về nhà thơ Huy Cận, một trong những nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại.
- Giới thiệu bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và trích dẫn hai khổ thơ được nêu trong đề bài.
Thân bài:
- Phần 1: Cảm nhận về hai khổ thơ trên
+ Giới thiệu vị trí của hai khổ thơ: Khổ đầu và khổ cuối của bài thơ.
+ Cảm nhận về khổ thơ đầu tiên: hình ảnh
đoàn thuyền đánh cá ra khơi trong buổi hoàng hôn với những người ngư
dân mang tinh thần phấn khởi lạc quan khi bắt đầu buổi lao động vào một
thời khắc đặc biệt. Để làm rõ điều này, học sinh cần chú ý phân tích
những yếu tố nghệ thuật như: so sánh, ẩn dụ được dùng trong khổ thơ (mặt
trời xuống biển như hòn lửa, sóng cài then, đêm sập cửa, đoàn thuyền
đánh cá, lại, câu hát, căng buồm cùng gió khơi).
+ Cảm nhận về khổ thơ cuối cùng: hình
ảnh đoàn thuyền đánh cá trở về trong buổi bình minh với khung cảnh rực
rỡ của biển cả và tinh thần phấn khởi lạc quan của người ngư dân. Để làm
rõ điều này, học sinh cần chú ý phân tích các hình ảnh, biện pháp nghệ
thuật (điệp, ẩn dụ : câu hát căng buồm, đoàn thuyền chạy đua, mắt cá huy
hoàng muôn dặm phơi).
+ Nhận xét chung: hai khổ thơ có những
hình ảnh đẹp, giàu sức liên tưởng, thể hiện được hình ảnh đoàn thuyền
đánh cá và người ngư dân Việt Nam với tinh thần lao động hăng say trong
sự nghiệp xây dựng đất nước.
Phần 2: Học sinh có thể liên hệ với thực
tế cuộc sống hoặc với một tác phẩm khác đã được học trong chương trình
(ví dụ: Quê hương của Tế Hanh, Cô Tô của Nguyễn Tuân,…)
- Học sinh dù chọn tư liệu nào cũng cần
phân tích để chỉ ra được tình yêu và sự gắn bó của con người Việt Nam
với biển quê hương.
- Sau đó, cần nhấn mạnh dù ở những phạm
vi khác nhau (văn học hay cuộc sống), tác phẩm khác nhau nhưng mọi người
đều có thể thấy được tình yêu và sự gắn bó của con người Việt Nam đối
với biển cả Việt Nam, một phần máu thịt thiêng liêng của Tổ quốc mà ông
cha đã dày công để xây dựng và đòi hỏi cháu con phải bảo vệ.
Kết bài: Tình yêu quê hương nói
chung và tình yêu biển đảo nói riêng là phẩm chất tốt đẹp và thiêng
liêng của cả loài người không riêng gì đối với con người Việt Nam.
Đề 2:
Yêu cầu chung:
Thí sinh phải biết kết hợp kiến thức và kỹ năng làm bài nghị luận văn
học: phân tích một số tác phẩm văn học tự chọn để nói lên những trải
nghiệm, những thu hoạch mà bản thân học sinh có được khi đọc tác phẩm
văn học với tinh thần “Đọc một tác phẩm – đi một dặm đường”. Bài viết có
bố cục đầy đủ, rõ ràng; văn viết có cảm xúc; thể hiện khả năng cảm thụ
văn học tốt; không mắc lỗi chính tả, từ ngữ, ngữ pháp.
Gợi ý:
Mở bài: “Học, học nữa, học mãi”
là một câu nói khẳng định rằng việc học là cần thiết cho mọi cuộc đời và
mọi thế hệ. Việc học của tuổi trẻ thường có được từ sách vở. Đọc sách
là một cách học chủ yếu của học sinh. Đặc biệt, những tác phẩm văn học
góp phần làm giàu kiến thức, nuôi dưỡng tâm hồn, hình thành nhân cách
cho tuổi trẻ. Chính vì thế “Đọc một tác phẩm – đi một dặm đường”.
Thân bài:
- Giải thích “Đọc một tác phẩm – đi một
dặm đường”: Đọc và sống với một tác phẩm văn học, người đọc sẽ tiếp thu
được nhiều điều quý báu từ kinh nghiệm, kiến thức, tư tưởng, cảm xúc của
tác giả, … giống như “đi một ngày đàng học một sàng khôn”.
- Phân tích chứng minh những bài học,
trải nghiệm mà học sinh có được từ việc đọc các tác phẩm văn học về các
mặt như kiến thức, tư tưởng, kinh nghiệm, cách mô tả và diễn đạt những
vấn đề trong cuộc sống, tâm lý nhân vật, miêu tả phong cảnh…
Phần này mỗi học sinh sẽ có
những trình bày cụ thể riêng. Học sinh có thể trình bày những trải
nghiệm riêng của mình khi nhập vai với những nhân vật trong tác phẩm.
Chỉ cần những điều được nêu phù hợp, đúng với tác phẩm được đề cập.
- Học sinh có thể bàn luận thêm về cách
đọc tác phẩm văn học để có được kết quả tốt nhất (lựa chọn tác phẩm phù
hợp với lứa tuổi, với mơ ước, với lý tưởng; đọc với tinh thần tập trung,
sống với thế giới nghệ thuật của tác phẩm).
- Bên cạnh những tác phẩm văn học trong
nhà trường, nên chọn lựa thêm những tác giả không có trong chương trình
văn học để bổ sung kiến thức, làm giàu tư tưởng của bản thân.
- Việc đọc sách rất quan trọng cho việc
hình thành nhân cách của thế hệ trẻ, do đó đòi hỏi trách nhiệm của những
người chọn lựa việc đưa tác phẩm văn học vào sách giáo khoa cần phải
thận trọng hơn.
Kết bài: Mỗi tác phẩm văn học đều
có những giá trị riêng về nội dung và nghệ thuật mang lại cho người đọc
những trải nghiệm, những thông điệp, những lắng đọng, những suy nghĩ,
những trăn trở,… Do đó, người đọc cần có thái độ nghiêm túc và chủ động
để việc “đọc một tác phẩm” thật sự là “đi một dặm đường” trong hành
trình tư tưởng và hình thành tính cách.
Nguyễn Đức Hùng
(Trung tâm luyện thi Vĩnh Viễn - TP.HCM)